1

THÔNG TIN TUẦN 1 MÙA CHAY (Năm B) 2012


SINH HOẠT GIỚI GIA TRƯỞNG THÁNG 3
Tuần này, vào lúc 16h30' chiều thứ sáu 02- 03 tại nhà thờ Chính Tòa, có sinh hoạt giới gia trưởng. Nhân dịp bước vào Mùa Chay. kính mong quý vị gia trưởng và mọi người nếu có thể được xin tham gia ngày sinh hoạt này.


GIÁO LÝ HÔN NHÂN KHÓA I năm 2012
Khai giảng vào lúc 19h00 tối Chúa nhật 04- 03. Khóa này sẽ học 12 tuần, học từ 19h00' đến 23h00' các tối thứ bảy và chúa nhật. Các bạn trẻ xứ Chính Tòa , Xuân Khánh và Suối Tre ghi danh học mang theo giấy chứng nhận bao đồng, và phiếu gia đình công giáo. Các bạn trẻ giáo xứ khác cần có giấy giới thiệu của cha xứ. Ai đang theo học lớp giáo lý tân tòng cũng được theo học lớp giáo lý hôn nhân này.

Thông Tin Giáo Xứ
0

THÔNG BÁO TÒA GIÁM MỤC XUÂN LỘC Tĩnh Tâm Mùa Chay 2012

 TÒA GIÁM MỤC XUÂN LỘC
 210 HÙNG VƯƠNG - XUÂN BÌNH - Tx LONG KHÁNH - ĐỒNG NAI

 Long Khánh,ngày 24 tháng 02 năm 2012

Kính gửi:

Quý Cha &TV/BHG, 
Các Giáo xứ – GHBL,
Giáo phận Xuân Lộc,
Kính thưa Quý Cha và Quý Chức,

Các giáo xứ (GHBL) đã bước vào Mùa Chay với nhiều khí thế, nhất là về việc phổ biến – học tập và sống chủ đề mục vụ 2012 : "GIA ĐÌNH VÀ GIÁO XỨ: SỐNG MẦU NHIỆM GIÁO HỘI VÀ TINH THẦN PHỤNG TỰ" trong kế hoạch ngũ niên mừng Kim khánh thành lập Giáo phận. Chúng con hy vọng nhờ lòng nhiệt tình hướng dẫn của Quí Cha, sự cộng tác tích cực của quí chức BHG, sinh hoạt của năm 2012 sẽ đem lại nhiều kết quả tích cực.
Trong nỗ lực đồng hành với quí Cha và quí chức, Ban Giáo dân chúng con kính trình Quí Cha và quí chức một số sinh hoạt giáo dân trong năm 2012 này :


I. TĨNH TÂM MÙA CHAY CHO Y BÁC SĨ – THẦY CÔ – TIỂU THƯƠNG + DOANH NHÂN.
1) Lịch tĩnh tâm : (Từ 07g30 đến 12g30 các Chúa nhật tại Nhà thờ Chính tòa Xuân Lộc)
1 CN II MC 04/03/2012 GIÁO VIÊN CÔNG GIÁO (từ Mầm non - Đại học)
2 CN III MC 11/03/2012 Y BÁC SỸ CÔNG GIÁO (Đông-Tây Y)
3 CN IV MC 18/03/2012 TIỂU THƯƠNG + DOANH NHÂN CÔNG GIÁO
2) Số lượng mỗi xứ :
Không hạn chế nhưng tránh tình trạng "đột xuất đi dự". Chúng con gửi kèm "thư mời" để quí giáo xứ tùy nghi sử dụng bằng cách nhân bản. Xin quí Cha, qui chức TV/BHG thông báo, vận động và ghi nhận tổng số người tham dự từng ngày Tĩnh tâm và báo cáo tổng số cho TGM/XL (Đt 3870 650 – e-mail : anrexuanloc@gmail.com) vào thứ Năm trước ngày Chúa nhật tĩnh tâm từng đợt.
3) Cơm trưa :
"góp gạo nấu cơm chung"


II. LỄ THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ, BỔN MẠNG BAN HÀNH GIÁO :
Mừng trọng thể vào Chúa nhật 01/07/2012 tại Tòa Giám mục Xuân Lộc.


III. BỒI DƯỠNG GIÁO DÂN :
1) BAN HÀNH GIÁO :
Tất cả quý chức Ban Hành giáo chưa tham dự hoặc chưa đạt kết quả tốt khóa nghiệp vụ các năm 2009 – 2010 – 2011 gồm BAN ĐIỀU HÀNH các Họ đạo + BAN TRỊ SỰ GIỚI GIA TRƯỞNG, HIỀN MẪU CẤP GIÁO XỨ + THƯỜNG VỤ BAN HÀNH GIÁO thuộc Giáo xứ – GHBL tham dự khóa duy nhất vào 02 ngày Thứ Bảy – Chúa nhật 14-15/07/2012 tại nhà thờ Hà Nội – Hạt Hố Nai . Quí chức không có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sẽ không được cứu xét "mãn nhiệm tốt đẹp".
2) CÁC GIA TRƯỞNG + HIỀN MẪU :
Hưởng ứng lời mời gọi của ĐTC Bênêđitô và của Ủy Ban Mục vụ gia đình thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam về Đại hội gia đình thế giới năm 2012 tại Milan (Ý), Giới Gia Trưởng + Hiền Mẫu kính xin Đức Cha cho phép tổ chức "NGÀY GIA ĐÌNH" cho các Gia trưởng + Hiền mẫu tại 04 cụm vào các ngày Chúa nhật từ 07g30 – 13g00 như sau :
I 22/07/2012 PHƯƠNG LÂM + TÚC TRƯNG NHÀ THỜ LA NGÀ
II 29/07/2012 GIA KIỆM + AN BÌNH + XUÂN LỘC NHÀ THỜ CTXL
III 19/08/2012 PHÚ THỊNH + HÒA THANH + HỐ NAI + BIÊN HÒA + TÂN MAI NHÀ THỜ HÀ NỘI
IV 26/08/2012 LONG THÀNH + PHƯỚC LÝ NHÀ THỜ HIỀN HÒA

Chúng con chân thành cám ơn và kính chào Quý Cha và Quý chức.
TM. BAN GIÁO DÂN
Lm. Vinh Sơn Đặng Văn Tú
Tổng Đại diện Gp


Thông Tin Giáo Xứ
0

MỘT NGÀY SỐNG CỦA ĐGH BÊNÊĐICTÔ XV

Một ngày sống của ĐGH Bênêđictô XVI
(Vatican, 24-2-2012, CNA/EWTN News) - Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, dù đã 84 tuổi, không bao giờ đi ngủ trước 11:00 đêm. Ngài lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày, thức dậy lúc 5g00 sáng và chỉ sử dụng chiếc điện thoại di động mà chỉ các cố vấn thân cận nhất của ngài mới có thể gọi đến.

Trong một bài viết đăng trên trang mạng Europaquotidiano.it hôm 17-2, nhà báo người Ý Aldo Maria Valli đã viết về một ngày sống của Đức Giáo Hoàng. Ngài thức dậy khi Thành phố Vatican “vẫn còn chìm trong im lặng”. Valli nói rằng vị Giáo hoàng gốc Bavarian là một “người Đức điển hình, một con người mẫu mực”, người “thích tổ chức một ngày sinh hoạt của mình thật chi tiết, theo một lịch trình rất chính xác”.

Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI bắt đầu một ngày của ngài với việc cử hành Thánh lễ bằng tiếng Ý tại nhà nguyện của Đức Giáo hoàng lúc 7:00 giờ sáng, cùng với 2 thư ký riêng của ngài, Cha Georg Ganswein và Cha Alfred Xuereb.

Các thành viên khác trong căn hộ giáo hoàng cũng tham dự Thánh lễ, bao gồm những người phụ giúp Đức Giáo Hoàng là các nữ tu Carmela, Loredana, Cristina và Rosella, thuộc cộng đoàn Memores Domini của Phong trào Hiệp thông và Giải phóng, và Paolo Gabriele, người dọn phòng riêng của ngài, 46 tuổi, đã có gia đình và có 3 đứa con.

Sau Thánh lễ, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI dùng điểm tâm sáng lúc 8:00 và sau đó về phòng nghiên cứu của ngài, nơi ngài làm việc mãi cho đến 11:00 trưa. Phòng làm việc của ngài luôn luôn có một tượng Chúa chịu nạn, 2 máy điện thoại, một chiếc là điện thoại di động mà chỉ có những cộng tác viên thân tín nhất mới biết số để gọi cho ngài.

Valli nói rằng Đức Giáo Hoàng thích được biết các thông tin về các sự kiện đang xảy ra trên toàn thế giới và đọc các tin tức bằng các ngôn ngữ khác nhau, bao gồm tiếng Đức, Ý, Anh, Pháp và Tây Ban Nha. Ngài cũng dành một ít thời gian để trả lời thư từ quan trọng.

Sau khi hoàn tất công việc buổi sáng, Đức Giáo Hoàng gặp gỡ các vị nguyên thủ quốc gia, các vị đại sứ và các vị đại diện khác trên tầng hai của Dinh Tông Toà.

Các cuộc gặp gỡ thường diễn ra tại Thư viện Giáo hoàng, tuỳ thuộc vào số lượng khách yết kiến và mức độ trang trọng của công việc. Các cuộc viếng thăm thường kéo dài khoảng 2 giờ. Vào ngày thứ tư hằng tuần, các cuộc viếng thăm phải ngưng để dành cho cuộc tiếp kiến chung của Đức Giáo Hoàng, diễn ra tại Đại Thính đường Phaolô VI hoặc Quảng trường Thánh Phêrô.

Vào lúc 1:30 trưa, Đức Thánh Cha dùng bữa với 2 vị thư ký của ngài. Hiếm khi nào có một vị khách dùng chung bữa trưa, và thực đơn thường là các món ăn miền Địa Trung Hải. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI không bao giờ uống rượu vang mà luôn luôn là nước cam vắt - Valli nói. Sau khi ăn trưa, Đức Thánh Cha rất thích làm một cuộc tản bộ ngắn, thường không quá 10 phút, cùng với các thư ký của ngài xung quanh các hành lang của Dinh Tông Toà, “được trang trí với các cây chanh và cam và từ nơi đó có thể nhìn thấy được một khung cảnh tuyệt vời của Thành phố Rôma”. Trong những lúc tản bộ thường không nói về công việc.

Đức Giáo Hoàng nghỉ trưa 1 giờ và vào lúc 3:30 chiều, ngài trở về phòng nghiên cứu của ngài. Ngài dành phần còn lại của buổi chiều để viết các văn kiện, các bài diễn văn và soạn bài giảng. Ngài không sử dụng máy tính nhưng viết tất cả mọi thứ bằng tay, và sau đó văn bản của ngài được sao chép lại và phiên dịch.

Valli nói Đức Giáo Hoàng là một người viết “cực kỳ cẩn thận”, ngài thích “rút lui vào phòng nghiên cứu để viết trong sự yên tĩnh, tự mình tìm kiếm các nguồn tài liệu bằng cách tra cứu thư viện cá nhân đồ sộ của ngài”.

Vào lúc 5:30 chiều, ngài ký vào các văn kiện được các thư ký của ngài chuẩn bị sẵn và sau đó gặp gỡ một số cộng tác viên thân cận nhất của ngài, chẳng hạn như ĐHY Quốc vụ khanh Toà Thánh Tarcisio Bertone, Đức Tổng Giám mục Dominique Mamberti, Trưởng Bộ phận Quan hệ với các Quốc gia, và những vị khác.

Sau đó, Đức Giáo Hoàng xuống tầng dưới để thực hiện một cuộc tản bộ khác, lần này ở trong Vườn Vatican. Ngài thường được một hoặc cả hai vị thư ký của ngài tháp tùng và họ đọc kinh Mân Côi trước bức tượng Đức Mẹ Lộ Đức.

Một bữa ăn tối nhẹ thường được phục vụ lúc 7:30 tối. Vào lúc 8:00 tối, Đức Giáo Hoàng trở về phòng nghiên cứu của ngài và sau đó vào nhà nguyện để cầu nguyện đêm. Ngài không bao giờ đi ngủ trước 11:00 tối - Valli viết. “Nếu bạn muốn chứng thực, bạn chỉ cần đi bộ qua Quảng trường Thánh Phêrô khoảng thời gian đó và xem thử lúc nào ánh sáng nơi cửa sổ tầng cao nhất của Dinh Tông Toà được tắt”.

Đó là khi cả thành phố Vatican đã chìm vào giấc ngủ, ngoại trừ các vệ binh và một vài kỹ sư - Valli nói.
Tomorrow Page 


Thông Tin Giáo Xứ
0

MÙA CHAY - NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA

MÙA CHAY
NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA
Jean Luc Muller
Église en fêtes, Téqui, 1990
Là thời gian hướng về ngày lễ Phục Sinh bắt đầu với Thứ Tư Lễ Tro, một thời gian thiêng liêng phong phú cho các cộng đoàn Kitô giáo, Mùa Chay với hình thức như hiện nay là kết quả của quá trình tiến triển lâu dài về lịch sử cũng như phụng vụ, xét về độ dài thời gian cũng như sự nghiêm ngặt của các quy định.
Nguồn gốc
Nói thật ra, Mùa Chay là một thiết chế của Giáo Hội không bắt nguồn từ thời Giáo Hội sơ khai. Đối với các Kitô hữu thời các Tông đồ, mỗi ngày Chúa Nhật là một cử hành biến cố Phục Sinh, và mãi cho đến thế kỷ thứ II mới thấy xuất hiện một ngày lễ đặc biệt dành để tưởng niệm cái chết và phục sinh của Đức Kitô để rồi sau đó biến thành Tam Nhật Phục Sinh (Triduum pascal): Thứ Năm Tuần Thánh, Thứ Sáu Tuần Thánh và Vọng Phục Sinh.
Biến cố này được chuẩn bị bằng một hay nhiều ngày ăn chay tuỳ theo miền, thường là từ chiều Thứ Năm Tuần Thánh cho đến sáng ngày lễ Phục Sinh, hoặc ít ra là trong vòng 40 giờ từ lúc Chúa chịu chết cho đến thời điểm phục sinh. Đến giữa thế kỷ thứ III, ở Alexandrie việc giữ chay kéo dài suốt Tuần Thánh, và đến cuối thế kỷ III thì tại Ai Cập cũng đã xuất hiện việc giữ chay kéo dài đến 40 ngày mà mục đích trước hết dường như là sống lại thời gian chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang mạc cũng như chuẩn bị cho lễ Phục Sinh.
40 ngày
Chẳng bao lâu sau, Mùa Chay 40 ngày của người Ai Cập đã định hình như là thời gian chuẩn bị cho Cái Chết và Phục Sinh của Đức Kitô và lan rộng ra khắp Giáo Hội. Vào tiền bán thế kỷ IV, ở Roma đã hình thành một thời gian chay tịnh trong 3 tuần trước khi cử hành biến cố Phục Sinh và vào khoảng giữa những năm 354 đến 384, họ cũng đã thêm vào 3 tuần nữa. Như vậy chính xác có 40 ngày (quadragesima) giữa Chúa Nhật mở đầu Mùa Chay cho đến khi bắt đầu Tam Nhật Thánh (Triduum).
Nhưng vì không ăn chay vào các ngày Chúa Nhật nên thực tế chỉ có 34 ngày ăn chay trong thời gian này. Cộng thêm ngày Thứ Năm và Thứ Sáu Tuần Thánh thì cũng chỉ có 36 ngày. Và cũng vì muốn chuẩn bị cho biến cố Phục Sinh bằng cách rập khuôn chính xác 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang mạc nên vào thế kỷ VII người ta thêm vào 4 ngày còn thiếu, và từ khi ấy người ta bắt đầu Mùa Chay với Thứ Tư trước Chúa Nhật I Mùa Chay mà sau này trở thành Thứ Tư Lễ Tro. Vào ngày này, các tín hữu ở Roma tụ họp nhau tại Nhà thờ Thánh Anastasie dưới chân đồi Palatin là nơi Đức Giáo Hoàng công bố mở đầu Mùa Chay; rồi mọi người đi thành đoàn rước đến Nhà thờ Thánh Sabine trên đồi Aventin để cử hành thánh lễ.
Thứ Tư Lễ Tro
Việc xức tro có nguồn gốc từ thực hành thống hối công khai, một nghi thức bắt buộc dành cho các tín hữu phạm lỗi nặng hoặc làm gương xấu trước khi họ được chính thức tái hoà nhập cộng đoàn vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, họ được xá tội và được phép rước lễ trở lại vì trước đó họ bị cấm.
Một trong những thực hành thống hối công khai này là xức tro trên đầu. Cử chỉ này thịnh hành ở Roma từ thế kỷ IV và dần dần lan ra các xứ Kitô giáo, rồi nhiều tín hữu tự nguyện xức tro trên đầu để biểu lộ ý muốn thống hối. Chính các Đức Giáo Hoàng cũng đã chấp nhận nghi thức này và vào thế kỷ XI thì các ngài đã kết hợp việc thống hối này với việc bắt đầu Mùa Chay, do đó mà có tên gọi Thứ Tư Lễ Tro và thực hành xức tro.
Là bụi đất, hình ảnh của tội lỗi và sự mong manh của con người, là những gì còn lại của thân xác sau khi ngọn lửa sự sống vụt tắt đi (x. St 3,19; 18,27), tro rắc trên đầu mà ngày nay người ta xức trên trán biểu lộ sự thống hối và tang chế (x. Is 58,5; 61,3; Gr 6,26). Chính vì thống hối dưới bụi tro và áo mặc áo vải thô mà dân thành Ninivê nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa (x. Gn 3).
Linh đạo Mùa Chay
Là thời gian hoán cải dành cho hối nhân, trong những thế kỷ đầu tiên, Mùa Chay cũng là thời gian chuẩn bị cho các dự tòng chịu phép rửa để được gia nhập cộng đoàn Kitô giáo vào đêm Phục Sinh, sau khi giữ chay và tiết chế trong suốt thời gian này cũng như miệt mài cầu nguyện.
Như thế, khi khuyên nhủ các tội nhân công khai hối cải, Giáo Hội cũng khích lệ toàn thể cộng đoàn thống hối, và khi nhắn gởi với các dự tòng, Giáo Hội cũng chuẩn bị cho mọi tín hữu sống lại ân sủng phép rửa của chính mình            
Khi chuẩn bị cho mọi người gặp gỡ Thiên Chúa, đối với các tín hữu, Mùa Chay đã trở thành một hành trình tiến về Thiên Chúa, một con đường vòng băng qua hoang mạc, một cuộc chiến đấu với những cám dỗ trong đời sống. Giáo Hội đề nghị chúng ta sống trọn vẹn cuộc sống Kitô hữu của chúng ta một cách nồng nhiệt hơn trong suốt mấy tuần hướng về ngày lễ Phục Sinh.
Như đoàn dân của Môisen lang thang nhiều năm dài trước khi vào Đất Hứa, chúng ta cũng khám phá ra rằng hành trình tiến về Thiên Chúa, con đường tiến về Nước Trời của chúng ta không phải là không gặp khó khăn, chướng ngại, thụt lùi, đôi khi có phản kháng nữa; thế nhưng Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện để mang lại cho ta hy vọng và niềm tin. Khi kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô vẫn luôn trung thành với Chúa Cha trong thử thách cuối cùng, chúng ta sống kinh nghiệm cuộc vượt qua tiến về Chúa Cha qua sự sống và cái chết, chúng ta dần tiến về mầu nhiệm của Đức Kitô để hiệp thông vào đó một cách sâu xa hết sức có thể.
Làm thế nào để diễn dịch cách cụ thể cuộc hành huơng tiến về với Thiên Chúa mà mỗi Kitô hữu được mời gọi trong suốt thời gian Mùa Chay này? Đã có câu trả lời được lặp đi lặp lại qua các bản văn phụng vụ ngày Chúa Nhật (và những ngày khác) trong thời gian chuẩn bị cho biến cố Phục Sinh: các bài đọc Tin Mừng cũng như Kinh Tiền Tụng đã dành ưu tiên cho bộ ba này: cầu nguyện, ăn chay và chia sẻ.
1.Cầu nguyện
Là khoảng không ngút mắt nơi không có sự sống, hoang mạc mà dân của Giao Ước cũ và chính Đức Kitô đã đi qua đưa chúng ta đến yếu tính của đời sống, dẫn chúng ta gặp gỡ với Hữu Thể độc nhất, cội nguồn cho hiện hữu của chúng ta: Thiên Chúa. Là nơi chốn gợi lên sự vô cùng của Thiên Chúa, chính trong hoang mạc mà Charles de Foucauld đã tận hiến hoàn toàn cho Ngài qua lời cầu nguyện. Như thế, hoang mạc và Mùa Chay là nơi chốn và thời gian để gặp gỡ Chúa trong lời cầu nguyện.
Qua lời cầu nguyện, đời sống chúng ta hướng về Thiên Chúa, chúng ta để cho Chúa Thánh Thần uốn nắn mình theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá để trở nên sẵn sàng cho Đức Kitô và cho anh em. Cầu nguyện là “lương thực hằng ngày” nuôi sống chúng ta bằng tình yêu của Thiên Chúa, không có nó tâm hồn chúng ta có nguy cơ xa rời ý muốn của Chúa Cha.
Theo gương các dự tòng vào những thế kỷ đầu tiên đã toàn tâm toàn ý cầu nguyện cách quảng đại và thực tâm, theo gương Đức Kitô lui vào trong cô tịch của hoang mạc Giuđa, chúng ta hãy biến Mùa Chay thành một thời gian gặp gỡ Chúa, chiêm niệm và tạ ơn, ngợi ca Danh Thánh Chúa và biến đổi tâm hồn.
2. Ăn chay
Là nơi gặp gỡ Thiên Chúa, đối với dân Israel cũng như đối với Đức Kitô, hoang mạc đồng thời cũng là thời gian thử thách, là trận chiến chống lại thế lực sự dữ để không nhường bước trước thú vui, điều choáng ngợp và quyền lực, ba thần tượng mà con người thường hy sinh tất cả để đạt cho được. Những cám dỗ này không ngừng quấy nhiễu chúng ta và là nguồn gốc nhiều sự dữ, ngay từ khi xuất hiện Mùa Chay, việc từ bỏ những cơn cám dỗ này được diễn dịch bằng việc ăn chay, một thực hành rất đòi hỏi nhưng lại đạt được nhiều kết quả thiêng liêng. Khi giảm thiểu những nhu cầu sống để chỉ giữ lại những gì thiết yếu, việc ăn chay giúp chúng ta trở nên những người nghèo khó trong tâm hồn (xem Các Mối Phúc), nghĩa là thành những con người cần đến Thiên Chúa, nhường cho Ngài một chỗ trong đời sống mình, người nghèo trong Tin Mừng là những người đặt hết niềm hy vọng vào Chúa, háo hức gặp gỡ với Đức Kitô. Như vậy sự khổ hạnh và từ bỏ mọi sự rất cần thiết để Thánh Thần Thiên Chúa xâm chiếm lấy con người mình.             
Nếu chay tịnh trước hết có nghĩa là từ bỏ của ăn thì trong ý nghĩa tận căn hơn nữa ăn chay cũng có nghĩa là từ bỏ tính ích kỷ, tính cứng đầu và lòng tham lam của chúng ta: “Đây là những điều bạn phải thực hành khi muốn ăn chay. Trước hết, hãy xa lánh mọi lời nói và ước muốn xấu xa, thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi thứ hư không đời này. Nếu giữ được điều đó, việc ăn chay của bạn sẽ nên hoàn hảo. Sau khi hoàn tất những gì tôi đã viết trên đây, vào ngày ăn chay, bạn không ăn gì ngoại trừ bánh mì và nước lã và rồi hãy tính toán giá lương thực mà bạn thường ăn trong ngày ấy, bạn dành tiền ấy để cho quả phụ, cô nhi hoặc người nghèo… Nếu bạn ăn chay theo như những điều tôi khuyên nhủ trên đây, hy sinh của bạn sẽ được Thiên Chúa chấp nhận” (Le Pasteur d’Hermas).
3.Chia sẻ
Ngay từ thế kỷ II, việc ăn chay đã có khuynh hướng chia sẻ như là một phương tiện giúp đỡ những ai đang túng thiếu để chúng ta có thể tiến đến gần Thiên Chúa hơn. Thánh Cyprianô thành Carthage vào thế kỷ III cũng đã để lại những dòng chữ rất thuyết phục về chủ đề này: “Những người giàu có và dư dật… bạn sẽ trở nên vàng ròng khi tinh luyện mình qua các công việc vì đức công bình và làm bố thí… Hãy xem trong Tin Mừng, một bà goá nghèo đã đi vào trong lời dạy của Thiên Chúa khi bà bố thí giữa lúc thất vọng và túng bấn. Bà ném vào trong thùng tiền hai đồng xu cuối cùng. Chúa đã lưu ý và nhấn mạnh về tấm lòng quảng đại của bà và nói: “Bà goá này đã dâng cho Thiên Chúa nhiều hơn mọi người khác”… Đức Giêsu Kitô muốn chúng ta hiểu rằng của bố thí của chúng ta sẽ đến với chính Thiên Chúa và rằng những ai bố thí thì đẹp lòng Chúa”.
Chia sẻ cũng là tình yêu tha nhân, nhìn nhận người khác như đồng loại của mình, nhận ra Đức Kitô trong những người anh em hèn mọn nhất. Đây là biểu hiện tình yêu Thiên Chúa của chúng ta và không thể được diễn dịch đơn thuần chỉ bằng một phong trào cứu trợ hay phong trào đoàn kết nào đó. Qua sự thiếu thốn và chia sẻ, chúng ta đáp ứng được giới răn kép của tình yêu: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi và yêu tha nhân như chính mình”.
Ghi chú:
Khi nói về việc ăn chay, mãi cho đến thế kỷ IX, tất nhiên là việc giữ chay nghiêm nhặt hơn ngày nay nhưng không phải là các tín hữu cả ngày không ăn uống gì. Thật ra, người ta phân biệt:
- Ăn chay đơn giản, kiêng mọi thứ thịt, cả trứng, phômai, bơ và sữa. Việc ăn chay này kéo dài suốt Mùa Chay, trừ các ngày Chúa Nhật.
- Ăn chay nhặt một vài ngày nào đó trong thời gian này, nhất là Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần Thánh. Trong những ngày này người ta chỉ dùng một bữa ăn nhẹ duy nhất trong ngày.
Hiện nay, Giáo Hội chỉ buộc kiêng thịt vào các ngày thứ sáu của Mùa Chay, ăn chay cùng với kiêng thịt vào các ngày Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh. “Luật kiêng thịt buộc những người đã 14 tuổi trọn. Luật ăn chay buộc hết mọi người đã đến tuổi trưởng thành cho tới lúc bắt đầu 60 tuổi” (Giáo luật điều 1252).
Nhưng trọn Mùa Chay vẫn là thời gian thống hối, các ngày Thứ Sáu khác trong năm cũng vậy. Trong những ngày này, “các tín hữu chú trọng đặc biệt đến sự cầu nguyện, thi hành việc đạo đức và việc bác ái, từ bỏ bản thân, bằng cách chu toàn các bổn phận riêng và nhất là bằng cách giữ chay và kiêng thịt” (Giáo luật điều 1249). Việc giữ chay và kiêng thịt cũng có thể được thay thế bằng các hình thức thống hối khác do Hội đồng Giám mục quy định (Giáo luật điều 1253).
Phụng vụ
Sự thống hối của Mùa Chay được biểu lộ ra bên ngoài qua màu lễ phục phụng vụ (màu tím) và không đọc kinh Allêluia và kinh Vinh Danh trong thánh lễ và các giờ kinh. Ngày xưa, việc đánh đàn trong nhà thờ hoàn toàn bị bãi bỏ trong thời gian này, ngày nay người ta hết sức giảm thiểu, chỉ đệm đàn để hát.
Một nốt nhạc vui đột nhiên cắt ngang những ngày thống hối này: đó là ngày Chúa Nhật Vui (Laetare), hay Chúa Nhật IV Mùa Chay với lễ phục màu hồng thay cho màu tím. Nguyên thuỷ của ngày này được tìm thấy trong nghi thức trao ban Tín biểu đức tin (kinh Tin Kính) cho các dự tòng vào ngày Thứ Tư sau Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Chay. Vì thế, niềm vui của Giáo Hội đã được biểu lộ trong phụng vụ ngay từ ngày Chúa Nhật vì mình sắp được thâu nhận những tín hữu mới. Lý do thật sự của ngày Chúa Nhật Vui (Laetare) – mà tên gọi xuất phát từ ca nhập lễ trong ngày này (Laetare Jerusalem – Hãy vui lên hởi Giêrusalem) – sau đó đã bị lãng quên để rồi mang lấy một ý nghĩa khác là “để an ủi cho các tín hữu khỏi bị ngã lòng nản chí vì nỗ lực kéo dài trong Mùa Chay và giúp họ tiếp tục chịu đựng những hạn chế với tâm hồn thanh thản và nhẹ nhàng” (Giáo Hoàng Innôcentê III, 1216).
Bài đọc các ngày Chúa Nhật Mùa Chay
Hướng về ngày lễ Phục Sinh, phụng vụ Lời Chúa trong 5 Chúa Nhật Mùa Chay (Chúa Nhật VI là Lễ Lá và Thương Khó) được diễn dịch bằng cách gợi lại những giai đoạn lớn trong hành trình của nhân loại tiến về ngày Phục Sinh của Đức Kitô:
- Những giao ước nguyên thuỷ (Năm A: St 2,7-3, 7; Năm B: St 9,8-15; Năm C: 26,4-10).
- Abraham (Năm A: St 12,1-4; Năm B: St 22,1-18; Năm C: St 15,5-18).
- Môisen (Năm A: Xh 17,3-7; Năm B: Xh 20,1-17; Năm C: Xh 3,1-15).
- Đất Hứa (Năm A: 1 Sm 16,1-3; Năm B: 2 Sb 36,14-23; Năm C: Gs 5,10-12).
- Các ngôn sứ (Năm A: Ed 37,12-14; Năm B: Gr 31,31-34; Năm C: Is 43,16-21).
Chủ đề của các bài Tin Mừng:
- Cơn cám dỗ và sự biến hình của Đức Kitô trong hai Chúa Nhật đầu tiên theo một trong ba Tin Mừng Nhất Lãm.
- Giáo lý về bí tích Rửa Tội trong 3 Chúa Nhật còn lại của năm A (Ga 4,5-42; Ga 9,1-41; Ga 11,1-45).
- Thập giá, dấu hiệu tôn vinh của Đức Kitô, trong ba Chúa Nhật còn lại của Năm B (Ga 2,13-25; Ga 3,14-21; Ga 12,20-33).
- Lòng thương xót của Chúa kêu mời hối cải trong 3 Chúa Nhật còn lại của Năm C (Lc 13,1-9; Lc 15,1-32, Ga 8,1-11).
Cuối cùng là các bài thánh thư được chọn lựa để làm rõ nghĩa cho bài Tin Mừng hay bài trích Cựu Ước.
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ
Nguồn: Trích “Bản Thông Tin” giáo phận Qui Nhơn, số tháng 2/2011

Thông Tin Giáo Xứ
0

MÙA CHAY - NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA

Lịch sử và ý nghĩa Mùa Chay

Ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng Thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Lời Kinh Thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu hiệu “bụi tro” được dùng trong Kinh Thánh và trong nghi lễ ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.

1. Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro
Những Quy luật Tổng quát của Năm Phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau: “Mùa Chay bắt đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay trước Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay” (số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm Phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo Hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo Hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro.
Trong truyền thống phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thề vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này là “Ðầu Mùa Chay” (Caput ieiunii), hay “Ðầu Mùa ăn chay 40 ngày” (Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời Ðức Giáo hoàng Gregoriô Cả (590-604).

Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành Bí tích Thống Hối và Hoà Giải, cũng như định chế Giáo Hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi nguời đều biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình... Những người này bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Ðể được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo Hội đưa ra. Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật I Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, và sau khi xưng thú tội của mình, họ sẽ được Ðức Giám mục trao cho chiếc áo nhậm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đưổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng Thứ Năm Tuần Thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, được Ðức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hoà với cộng đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Ðại Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô, Thánh Phaolô ngoại thành, Thánh Gioan Lateranô và Ðức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.

Về sau định chế thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Ðầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận tro trên mình. Về sau các Ðức Giáo hoàng và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh nguyện Thánh Thể, và việc lãnh nhận tro như khi cử hành việc rước lễ.

Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại Rôma, Ðức Giáo hoàng tập họp các giáo sĩ, giáo dân tại Nhà thờ Thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất cả đi kiệu về Nhà thờ Thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đi kiệu, Ðức Giáo hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhặm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến Nhà thờ Thánh Sabina, Ðức Giáo hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn cùng hát bài “Chúng ta hãy thay đổi đời sống, xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵng sàng tha thứ mọi tội khiên” (Immutemur, x. Ge 2,13). Sau đó ngài cử hành thánh lễ. Ðó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư Lễ Tro, Ðức Giáo hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại Nhà thờ Thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ Nhà thờ Thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại Nhà thờ Thánh nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo Hội (Sứ điệp Mùa Chay năm 2002 “Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không” [Mt 10,8]).

Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo Hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời: “Ta là thân cát bụi sẽ trỏ về cát bụi” (St 3,19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng Chung Vatican II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành sau phần Phụng vụ Lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng Thế, còn có thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc Âm: “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng” (Mc 1,15). Với công thức mới này được thêm vào, thì biểu hiệu “tro” đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro: “Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ 40 ngày chay thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành Mầu nhiệm Vượt qua của Ðức Kitô, Con Một Chúa, Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời” (còn có một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).

2. Ý nghĩa việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ Tro

Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhặm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (x. St 3,18.27; Giob 34,17; Gr 6,26; 25,34; Est 4,13; Is 58,5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith 4,16; 9,1).

Trong truyền thống các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: “Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi”. Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Ðó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.

Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo Hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế, cần phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do Thái, là quay ngược lại với 360 độ. Ðàng khác, suy tư về bụi tro để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tuỳ thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thư Tư Lễ Tro.

Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo Hội dùng trong Mùa Chay, như màu áo lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.

Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là Mùa Chay. Ðồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa Chay.

Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ hạnh cá nhân, nhưng là để hướng về ơn cứu rỗi Chúa Kitô đã thực hiện và Giáo Hội đang chuẩn bị mừng trong Đại lễ Phục Sinh. Ngày nay các biểu hiệu bên ngoài, như thống hối công cộng, như mặc áo nhặm, như đi chân không trong cuộc hành hương... không còn được thực hiện như xưa, vì hoàn cảnh xã hội đổi thay, nhưng thái độ và ý chí thống hối, canh tân trở về vẫn phải in khắc sâu đậm trong thâm tâm mỗi người. Mỗi người sẽ tự đưa ra cho mình một số những thực hành thống hối trong cuộc sống cụ thể để biểu lộ ý nghĩa và tinh thần của lễ nghi xức tro.

Lm. Phanxicô Borgia Trần Văn Khả
Thông Tin Giáo Xứ
0

LỄ GIỖ 24 NĂM ĐỨC CHA CỐ ĐAMINH NGUYỄN VĂN LÃNG

Đức Cha cố Đaminh tại nhà thờ CTXL sau chiến tranh

    Ngày 22.02.2012 là ngày giỗ 24 năm của Đức Cha cố Đaminh Nguyễn Văn Lãng. Năm nay ngày giỗ trùng vào thứ tư lễ tro. vì thế tại giáo xứ Chính Tòa, ngày giỗ Đức Cha cố Đaminh sẽ cử hành vào thứ ba 21.02 Đặc biệt. sau thánh lễ chiều 21.02. giáo xứ sẽ sang Tòa Giám Mục kính viếng phần mộ Đức Cha cố Đaminh. và đặt lãng hoa viếng các Đức Cha đã Qua Đời.
Phần mộ Đức Cha cố Đaminh tại TGM cũ
Phần mộ Đức Cha cố Đaminh tại TGM mới


Thông Tin Giáo Xứ
0

TIN VUI CHO GIÁO HỘI VIỆT NAM

   
Từ ngày 23-03 đến 09-04-2012 sẽ có phái đoàn Tòa Thánh tới Việt Nam để thu nhập thêm chứng từ cho việc phong thánh cho Tôi tớ Chúa là Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận. Được biết cha Phanxicô Xavie Trương Bửu Diệp. Linh mục Giáo phận Cần Thơ cũng được giáo dân Việt Nam hải ngoại đề xuất xin lập hồ sơ tuyên thánh . Xin Quý ÔBACE hiệp ý cầu nguyện cho các tiến trình này được sớm hoàn thành.
Thông Tin Giáo Xứ
0

Họp Mặt Truyền Thống Tiểu CHỦNG VIỆN PHALÔ XUÂN LỘC - 2012

Tiểu Chủng Viện Thánh Phaolô được Đức Cha Giuse Lê Văn Ấn – Giám Mục tiên khởi Giáo Phận Xuân Lộc – thiết lập năm 1966. Đã có 8 lớp xuất thân từ Tiểu Chủng Viện Thánh Phaolô,
Photo : nguyenthuong media
          Ttrong số đó, hơn 40 chủng sinh đã thụ phong Linh Mục, và 2 Giám Mục là Đức Cha Tôma Vũ Đình Hiệu (lớp đầu tiên) – Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Xuân Lộc, Việt Nam và Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Long (lớp cuối cùng) – Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Melbourne, Australia.
Đức Cha Thomas Vũ Đình Hiệu - Xuân Lộc
Đức Cha Vicent Nguyễn Văn Long -  Melbourne
    Hình ảnh ngày họp mặt Truyền thống năm 2012. tại nhà thờ Chính tòa Xuân Lộc 
 

 Hình ảnh ngày họp mặt Truyền thống năm 2009. tại nhà thờ Chính tòa Xuân Lộc 


Thông Tin Giáo Xứ
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Bài Đăng Được Xem Nhiều